Thứ Năm, 22 tháng 8, 2013

Bài 4: Kinh nghiệm quản ngại hệ thống NACCS của mới cập nhật Nhật Bản.

Ngoại giả, trọng điểm Kudan cũng quản ngại một số hệ thống vệ tinh nhỏ như COMTIS (Hệ thống thông báo và thu thuế đối với thư tín quốc tế), ACTIS (Hệ thống thông tin và thu thuế đối với hàng đường không), COMOS (Hệ thống soát và mạng thông báo hàng đường biển)

Bài 4: Kinh nghiệm quản lí hệ thống NACCS của Nhật Bản

Bình. Văn phòng là nơi đưa ra quyết định về định hướng phát triển, nâng cấp các hệ thống CNTT của thương chính và chịu nghĩa vụ về phân bổ ngân sách đầu tư, soát, giám sát mua sắm đấu thầu các hệ thống CNTT. Trọng điểm NACCS được thành lập vào tháng 5-1977 dưới hình thức một tổ chức thuộc Chính phủ và chuyển thành cơ quan hành chính độc lập vào tháng 10-2003. Phí giao tế sử dụng hệ thống NACCS chính là ngân sách để duy trì hoạt động của trọng điểm.

Văn phòng chịu trách nhiệm giám sát sờ soạng các hệ thống CNTT, bao gồm cả hai trọng điểm NACCS và Kudan, mạng thông tin. Trọng tâm này là đơn vị sự nghiệp có thu. Ban lãnh đạo gồm 1 Tổng giám đốc và 3 tổng giám đốc. Để thực hiện nhiệm vụ này, Trung tâm NACCS kí hợp đồng với Công ty NTT Data để bảo trì, nâng cấp phát triển hệ thống. Đối với khối tư nhân, các đối tượng hoạt động trong lĩnh vực logistics, đại lý làm thủ tục thương chính, ngân hàng, doanh gia hoạt động XNK là những đối tượng chính dự dùng hệ thống.

Trọng tâm Kudan kí hợp đồng với các công ty tin học để bảo trì kĩ thuật, hỗ trợ vận hành, nâng cấp phát triển hệ thống.

T. Bên cạnh đó, trọng tâm cũng kết hợp với Trung tâm NACCS tham dự quản và vận hành hệ thống NACCS ở một mức độ giới hạn, đa số can hệ đến nghiệp vụ hải quan như thuế suất, chính sách,… Nhân sự tại Trung tâm Kudan là cán bộ, công chức hải quan được chọn lựa từ các lĩnh vực nghiệp vụ khác nhau, được đào tạo tại chỗ về kĩ năng quản ngại, vận hành hệ thống.

Đến tháng 10-2008, cơ quan này chính thức được cổ phần hóa, trong đó quốc gia là cổ đông chi phối (chiếm trên 50%) để đảm bảo quyền kiểm soát của Chính phủ đối với việc bổ nhiệm Ban giám đốc cũng như vận hành sờ soạng hệ thống. Về phía các cơ quan Chính phủ có: cơ quan thương chính; cơ quan cai quản nhập cư và hành khách xuất nhập cảnh; cơ quan kiểm dịch động, thực vật; cơ quan kiểm soát vệ sinh an toàn thực phẩm, dược phẩm; cơ quan quản ngại cảng; cơ quan biên phòng; các văn phòng quản lý thương mại; chính quyền địa phương.

Trung tâm NACCS có 5 phòng. Trung tâm Kudan được đặt tại thương chính vùng Tokyo song ít chịu sự chi phối từ thương chính Tokyo mà đẵn duy trì mối quan hệ dưới hình thức vắng, bàn bạc, tham vấn trong công việc. Cũng từ đặc điểm này mà nhân sự tại đây được phân chia theo tỉ lệ 50/50, tức thị một nửa là nhân viên Chính phủ (cán bộ hải quan và một số cán bộ thuộc các cơ quan khác), nửa còn lại đến từ các công ty tư nhân lớn.

Các bên dự sử dụng và vận hành hệ thống NACCS bao gồm cả khối cơ quan công và khối tư nhân. Mọi giao dịch trên hệ thống NACCS đều được tính phí.

Trọng tâm Kudan - vận hành, phát triển hệ thống CIS  trọng tâm Kudan là đơn vị thuộc thương chính Nhật Bản, được thành lập trong bối cảnh tinh giản bộ máy tổ chức ở cấp trung ương và đẩy mạnh phân cấp về địa phương.

Trung tâm điều hành hệ thống thông quan hàng hóa tự động (NACCS)  Việc quản và điều hành Hệ NACCS được tụ hội về trọng điểm NACCS. Bây giờ, trọng tâm NACCS chịu bổn phận quản lí hệ thống NACCS và tham dự vào việc phát triển và nâng cấp chương trình và cung cấp các dịch vụ can dự đến vận hành hệ thống NACCS.

Hiện trọng tâm NACCS có 107 người (khi mới thành lập có 25 người). Trọng tâm Kudan chịu trách nhiệm chính quản ngại, vận hành, phát triển và nâng cấp hệ thống CIS (hệ thống thông tin hải quan phục vụ riêng cho mục đích quản lí của cơ quan hải quan). Văn phòng quản lí thông tin  Là đơn vị trực thuộc Tổng cục thương chính Nhật Bản nằm trong Bộ Tài chính, có bộ máy gọn nhẹ với khoảng 12 người.

Trọng tâm Kudan được cơ cấu thành 7 phòng chức năng với trên 60 biên chế. Việc tư nhân hóa trọng điểm NACCS xuất phát từ đặc điểm là hệ thống NACCS phục vụ cho cả khu vực tư nhân và khu vực công, nhằm mục tiêu nâng cao hiệu quả cung ứng quốc tế và sức cạnh tranh giữa các cảng biển và trường bay. Nhìn vào mô hình tổ chức quản ngại vận hành NACCS/CIS của Nhật Bản có thể thấy nó được hình thành từ nhu cầu tinh giảm bộ máy trung ương và tăng cường sự dự của khu vực tư, qua đó nâng cao tính cạnh tranh trong cung ứng dịch vụ song vẫn đảm bảo sự kiểm soát của Chính phủ đối với các hệ thống.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét